Bệnh giun móc là gì?
Bệnh này thực chất do hai nguyên nhân gây ra, là giun móc (Ancylostoma duodenale) và giun mỏ (Necator americanus), đều thuộc họ Ancylostomidae kí sinh ở người. Tuy nhiên hai loại giun này gần giống nhau về đặc điểm sinh học, dịch tễ, chẩn đoán - điều trị, và phương pháp phòng bệnh, do đó bệnh do chúng gây ra được gọi chung là bệnh giun móc (hoặc giun mỏ).
Khi kí sinh tại tá tràng, giun móc hút khoảng 0,2 - 0,34 ml máu/ngày, gây viêm hành tá tràng và tiết ra chất chống đông, chất ức chế sản sinh hồng cầu, gây mất máu mạn tính.
Giun móc ký sinh bằng cách ngoạm 2 đầu móc vào niêm mạc ruột để hút máu, gây ra những vết loét, gây chảy máu rỉ rả nên người bị thiếu máu thiếu sắt. Thậm chí, có khi bội nhiễm vi khuẩn xâm nhập gây vết loét thành ruột.
Đặc điểm dịch tễ học
- Bệnh giun móc/giun mỏ lưu hành ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Điều kiện quyết định sự lây truyền của giun móc/giun mỏ là khí hậu, tình trạng vệ sinh, các tập quán sinh hoạt và mức độ tiếp xúc với đất bẩn nhiễm phân người. Dân ở nông thôn nhiễm cao hơn dân ở thành thị, đặc biệt là dân vùng trồng màu hoặc cây công nghiệp như dâu tằm, mía, cà phê, thuốc lá, ở vùng mỏ than.
- Giun móc hút khoảng 0,2 - 0,34 ml máu/ngày. Giun mỏ hút khoảng 0,03-0,05 ml máu/ngày. Ngoài tác hại giun hút máu, giun móc/giun mỏ còn gây viêm hành tá tràng và tiết ra chất chống đông máu, chất độc ức chế cơ quan tạo máu sản sinh hồng cầu làm trầm trọng thêm tình trạng mất máu của bệnh nhân
Nguồn truyền nhiễm
- Ổ chứa: là người, đặc biệt là người hay tiếp xúc với đất nhiễm phân.
- Thời gian ủ bệnh: Thời gian từ khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể qua da, niêm mạc lên tim, phổi và bị nuốt trở lại vào dạ dày, ruột non đến khi thành giun trưởng thành khoảng 42 - 45 ngày. Trường hợp ấu trùng xâm nhập vào cơ thể qua đường thức ăn, nước uống thì chúng không di chuyển qua phổi mà ký sinh trực tiếp tại tá tràng hoặc ruột non.
- Qua đường da, niêm mạc: ấu trùng giun móc/giun mỏ giai đoạn III xâm nhập vào cơ thể người qua da, niêm mạc (kẽ ngón chân, cẳng chân...) theo tĩnh mạch về tim, phổi. Tại phổi, ấu trùng thay vỏ 2 lần thành ấu trùng giai đoạn IV và V, ấu trùng giai đoạn V lên họng hầu và được nuốt lại xuống ruột, ký sinh ở tá tràng và phát triển thành giun móc/giun mỏ trưởng thành.
Triệu chứng của bệnh giun móc/ mỏ
Giun móc/mỏ có giai đoạn ấu trùng xuyên qua da và giai đoạn ký sinh tại ruột nên triệu chứng tại mỗi giai đoạn là khác nhau.
- Giai đoạn ấu trùng xuyên qua da
Khi ấu trùng xâm nhập qua da có thể gây hiện tượng viêm da tại nơi chúng xâm nhập với các triệu chứng chính gồm: ngứa, xuất hiện nhiều nốt đỏ. Các nốt đỏ có thể mất sau 1 - 2 ngày, còn trường hợp bội nhiễm vi khuẩn sẽ gây ra tình trạng lở loét da, bệnh có thể kéo dài hơn 1 - 2 tuần.
- Giai đoạn giun móc/ mỏ ký sinh tại ruột:
Không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu mà chủ yếu là tình trạng thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc với biểu hiện có cảm giác mệt mỏi, khi gắng sức thường xuyên xuất hiện các triệu chứng đánh trống ngực, ù tai, hoa mắt, chóng mặt, khó thở, da xanh, niêm mạc nhợt, mạch nhanh, huyết áp hạ,có thể phù toàn thân nhẹ,…
Tình trạng thiếu máu biểu hiện nặng thường xảy ra ở phụ nữ nông thôn làm nghề nông, chính vì vậy nó càng dễ dẫn đến tình trạng rối loạn kinh nguyệt hoặc đẻ non, vô sinh.
Ngoài tác hại mất máu thì giun này còn gây ra tình trạng viêm loét hành tá tràng.
Phương thức lây truyền
- Qua đường ăn uống: thức ăn, nước có nhiễm ấu trùng. Không có lây truyền trực tiếp từ người sang người.
- Tất cả mọi người đều có thể nhiễm giun móc/giun mỏ, đặc biệt là những người nông dân vùng trồng màu, cây công nghiệp, dân có tập quán sử dụng phân tươi trong canh tác nông nghiệp.
Biểu hiện bệnh
Không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu mà chủ yếu là biểu hiện thiếu máu.
- Da xanh, niêm mạc nhợt.
- Đau vùng thượng vị tuỳ theo mức độ nhiễm giun. Đau không có giờ nhất định, khi đói đau nhiều hơn, ăn không ngon miệng, khó tiêu.
- Khi ấu trùng giun móc/giun mỏ xuyên qua da có thể gây viêm da tại chỗ với các triệu chứng ngứa, có nhiều nốt màu đỏ và hết sau 1-2 ngày. Viêm da thường do giun mỏ gây ra nhiều hơn là giun móc.
Cận lâm sàng
- Thiếu máu do giun móc/giun mỏ là thiếu máu nhược sắc.
- Giảm protein toàn phần
- Bạch cầu ái toan tăng 5-12%.
- Soi phân ( Phương pháp xét nghiệm: kỹ thuật Kato hoặc Kato-Katz): có trứng giun móc/giun mỏ trong xét nghiệm phân. Trứng giun móc và trứng giun mỏ tương đối giống nhau: trứng giun móc hình trái xoan, kích thước từ 40 - 60 m, ngoài là lớp vỏ không màu, nhẵn. Trong trứng có nhân, lúc sinh ra trứng đã có phôi bào.
Điều trị giun móc - giun mỏ
Sử dụng một trong các loại thuốc sau:
- Albendazole
- Mebendazole
- Levammisol
Phòng bệnh
- Giữ vệ sinh sạch sẽ, ăn chín uống sôi.
- Làm sạch ngoại cảnh, diệt ấu trùng bằng cách rắc vôi bột ở những nơi ô nhiễm nặng.
- Hạn chế tiếp xúc với đất tránh ấu trùng nhiễm vào người bằng cách. Đối với người lao động làm việc dưới hầm lò, hay tiếp xúc với phân đất... cần có phương tiện bảo vệ: đi ủng, đeo găng tay cao su.
- Không phóng uế bừa bãi, xử lý phân hợp vệ sinh.
Nguồn Tài Liệu Viện Sốt Rét – Ký Sinh Trùng – Côn Trùng Hồ Chí Minh